Hiện nhu cầu tiêu thụ cá kèo tăng rất cao, nên phong trào nuôi cá kèo thương phẩm ở vùng ven biển thuộc ĐBSCL phát triển và ngày càng mở rộng diện tích.
Tổng quan
Cá kèo hay còn gọi cá bống kèo, sống ở vùng ven bờ biển, bãi bồi, cửa sông ở Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL). Cá kèo thịt thơm ngon nên được nhiều người ưa chuộng, cá có thể dùng làm thực phẩm tươi hoặc khô. Hiện nhu cầu tiêu thụ cá kèo tăng rất cao, nên phong trào nuôi cá kèo thương phẩm ở vùng ven biển thuộc ĐBSCL phát triển và ngày càng mở rộng diện tích, nhất là thời gian cuối tháng 4, tháng 5 trở đi là thời điểm cá kèo sinh sản, lượng cá giống dồi dào, người dân sẽ thả nuôi nhiều.
Tuy nhiên cá kèo khi đưa vào nuôi thương phẩm cá bị hao hụt nhiều, tỉ lệ sống chưa cao, dễ mắc các loại dịch bệnh như bệnh xuất huyết lở loét (ghẻ), nấm, ký sinh trùng …dẫn đến cá bị chết nhiều, ảnh hưởng năng suất khi thu hoạch.
Ao nuôi cá kèo thương phẩm
Tập tính sống của cá kèo
Cá kèo sống chủ yếu ở vùng nước lợ, mặn bãi bùn, rừng ngập mặn và cửa biển… Mang cá có nhiều nếp gấp, cá có khả năng hô hấp trực tiếp từ khí trời và sống được trong điều kiện môi trường có hàm lượng oxy hòa tan thấp. Cá bống kèo thích nơi có thủy triều lên xuống nên có thể chịu được nhiệt độ môi trường dao động lớn, nhiệt độ thích hợp từ 23 – 28°C. Cá kèo là loài cá ăn thiên về sinh vật phù du, các loại thực vật sống bám vào nền đáy và mùn bã hữu cơ… Hệ thống tiêu hóa có chiều dài hơn 3 lần chiều dài cơ thể, chứng tỏ đây là loài cá ăn tạp, thiên về thực vật. Khi cá kèo nuôi thương phẩm trong ao, ngoài thức ăn tự nhiên, cá cũng sử dụng thức ăn công nghiệp khá tốt.
Khi thả cá giống: cần chọn giống khỏe mạnh, điều cỡ và thả giống với mật độ nuôi vừa phải không quá 100 con/m2.
Kiểm soát nguồn thức ăn: cá kèo nuôi bằng thức ăn công nghiệp (hay còn gọi là thức ăn nhân tạo), thức ăn này không hoàn hảo bằng thức ăn tự nhiên được. Do đó khi cho cá ăn cần bổ sung thêm tổ hợp các vitamin, khoáng chất và các acid amin thiết yếu cho cá ăn mỗi ngày; liều dùng 10 mg/kg thức ăn. Mục đích giúp nâng sức khỏe cho cá, cá phát triển đồng đều, mau lớn, hạn chế tỉ lệ phân đàn.
Kiểm soát dịch bệnh: theo dõi thường xuyên mọi hoạt động cá kèo, nhất là khi thay nước cũng như lúc cho cá ăn để sớm phát hiện dấu hiệu bất thường và có biện pháp xử lý ngăn chặn cá bị bệnh kịp thời. Trong quá trình nuôi cá kèo thường bị nhiễm 2 bệnh sau:
+ Bệnh nấm và các loài ký sinh trùng: biểu hiện bên ngoài như da cá trở nên sậm màu, cá uốn mình liên tục, bơi lội không định hướng, cá yếu dần và chết rải rác mỗi ngày. Mang cá nhợt nhạt có con mang sung huyết do tổn thương… là do các loài ký sinh như trùng bánh xe (Trichodina sp.) và trùng quả dưa (Ichthyophthyrius sp.) bám trên mang và vây cá. Ngoài ra cũng có trường hợp cá bị nhiễm thêm nấm Fusarium sp, ký sinh trên da và mang cá gây các hiện tượng trên.
+ Bệnh xuất huyết, lở loét do nhiễm khuẩn: các loài vi khuẩn gây bệnh là Aeromonas sp, Pseudomonas sp, Vibrio sp… Dấu hiệu cá hay tách đàn bơi một chỗ ở các góc ao nuôi, có con mắt sưng to, bụng phình to, cơ 2 bên thân bị phù, nhất là ở gần cuống đuôi. Một số cá bị bệnh nặng, có thể lở loét ra cả bên ngoài ở bụng, gốc vi, đầu (người dân thường gọi bệnh ghẻ)… Khi mổ chỗ cơ bị sưng, có nhiều dịch chảy ra, màu hơi đỏ, mùi rất tanh, bong bóng, thận, mật phình to, ruột không có thức ăn…
Điều trị: sử dụng kháng sinh trị bệnh cho cá, tuy nhiên để điều trị bệnh hiệu quả cần lưu ý 2 yêu cầu sau:
- Cần phát hiện bệnh sớm và tiến hành điều trị ngay khi cá còn bắt mồi… Tuy nhiên, hiện nay cá kèo có dấu hiệu lờn một số thuốc kháng sinh, do vậy để điều trị hiệu quả cần lấy mẫu cá kèo bệnh gởi về phòng kiểm nghiệm làm kháng sinh đồ để tìm kháng sinh nhạy với vi khuẩn gây bệnh thì chọn kháng sinh thích hợp để điều trị bệnh cá mau dứt bệnh.
- Sau liệu trình điều trị kháng sinh 5 – 7 ngày liên tục cá hết bệnh. Bổ sung men tiêu hóa cũng như vitamin tổng hợp cho cá ăn, sẽ giúp cá nhanh bắt mồi, mau hồi phục, cá ít khi tái phát bệnh trở lại.
Nguồn: Thu Anh (aquaculture.vn).