Vận chuyển kín
Thường dùng các túi polyetylen có độ dầy 0,1mm, thường được lồng 2 -3 túi với nhau tuỳ theo kích thước cá và theo loài để đề phòng mất nước hoặc mất ôxy khi túi thủng. Đối với cá lớn có vây sắc đòi hỏi nhiều túi hơn. Bên ngoài các túi nilon đuợc bao bằng bao tải dứa hoặc thùng xốp. Túi chứa 20 – 40% nước và 60 – 80% ôxy, nước đủ để che phủ cá khi chúng nghỉ ngơi. Trước tiên túi được tráng sạch để loại bỏ các tạp chất trong quá trình sản xuất túi, rồi lấy nước sạch vào túi, sau đó đưa ĐVTS vào túi và tiến hành bơm ôxy. Nước sạch, không chứa các chất gây ô nhiễm: H2S, NH3, CO2, Sắt.. Ôxy được đưa vào túi thông qua các ống dẫn khí. Đối với cá bột, cá hương thì ôxy được đưa vào phần trên của nước. Đối với cá trưởng thành thì ôxy được sục vào nước. Nếu ôxy không sẵn có thì có thể dùng khí trời nhưng cần giảm mật độ và thời gian vận chuyển. Các túi được buộc bằng dây cao su chắc và được lồng trong các bao dứa hoặc thùng xốp. Đối với các thợ buôn cá giống chuyên nghiệp họ thường buộc các bao túi nilông chắc, dai, tốt có luồn ống nhựa dẫn khí sẵn ở dưới đáy túi, họ không bơm khí ô xy từ phía trên của túi mà sau khi đóng cá vào túi, cho hết khí trong bao túi ra, buộc túi cá lại và bơm ôxy qua các ống dẫn khí từ phía đáy túi đến độ căng tối đa thì dừng lại và nút ống dẫn khí bằng nút tre chắc để nước và khí không thoát ra ngoài qua ống dẫn khí. Bằng cách này các túi cá có thể vận chuyển tăng 30-50% lượng ĐVTS vận chuyển so với đóng khí qua ống dẫn khí từ phía miệng bao túi.
Nếu vận chuyển trong thời tiết nóng thì đặt các túi đá bên cạnh bao túi hoặc thùng xốp nhằm hạ nhiệt độ trong quá trình vận chuyển. Không nên bỏ trực tiếp tảng đá trong túi cá vì cá sẽ lảng xa tảng đá làm mất diện tích trong túi, mặc dù việc làm này sẽ giữ lạnh hiệu quả hơn.
Vận chuyển hở
ĐVTS được giữ trong các bể, thùng, lồ có sục khí hoặc sục ôxy. Các dụng cụ vận chuyển là ô tô, xe máy, tàu, thuyền. Thể tích các bể, lồng hoặc thùng từ 200-3000 lít tuỳ thuộc vào phương tiện vận chuyển. Bể, lồng hoặc thùng vận chuyển thường có hình chữ nhật hoặc hình vuông, đôi khi có hình ô van hoặc hình tròn. Các dụng cụ chứa thường được làm bằng khung sắt hoặc nhôm, gỗ, inôx hoặc bằng nhựa và thường được lót bạt không thấm nước bên trong. Trong quá trình vận chuyển thường dùng các xe lạnh hoặc dùng đá để điều tiết nhiệt độ nước và dùng các bơm khí hoặc bơm ôxy để cung cấp ôxy cho ĐVTS. Nếu vận chuyển đường dài cần thay hoặc lọc nước để loại bỏ chất thải có trong nước. Mật độ chứa tối đa trong quá trình vận chuyển phụ thuộc loài, kích cỡ, nhiệt độ, thời gian và chất lượng nước.
Vận chuyển ẩm
Phương pháp vận chuyển này thường được dùng vận chuyển động vật thân mềm, giáp xác, một số loài cá có cơ quan hô hấp phụ hoặc vận chuyển cá biển thông qua hình thức ngủ đông, vận chuyển trứng cá đã thụ tinh,… Yêu cầu dụng cụ vận chuyển giữ ẩm và thoáng, tránh xếp các lớp ĐVTS quá dầy lên nhau.
Sử dụng hoá chất trong vận chuyển
Cá ngủ hoặc cá ngừng hoạt động tiêu hao ô xy ít hơn cá hoạt động, cá ngủ ít bị xây sát và stress hơn. Cá ngừng hoạt động vận chuyển được nhiều và dễ dàng hơn cá hoạt động.
Trong quá trình sử dụng hoá chất để vận chuyển cá cần tính toán nồng độ thuốc cho phù hợp vì liều sử dụng để vận chuyển và liều gây chết rất gần nhau.
Ngoài việc dùng hóa chất gây mê, ngủ cho cá trong quá trình vận chuyển người ta còn sử dụng hóa chất gây mê, ngủ cho cá trong quá trình chọn lọc, tiêm vaccine, tiêm thuốc kích dục tố. Các loại hoá chất thường dùng: MS-222, Quinaldine, TMS (Tricain metalsulfonate)… Hết thời gian vận chuyển đưa cá ra nước sạch để cá hồi tỉnh lại.
Hiện nay trên thị trường Thái Lan dùng phổ biến loại thuốc ngủ MS-222 để vận chuyển cá giống. Loại thuốc này làm cho cá ngủ trong quá trình vận chuyển, giảm thiểu tối đa các hoạt động trao đổi chất, hô hấp, tiêu hóa, bài tiết cũng như tránh sự cọ sát có thể gây tổn thương cá trong quá trình vận chuyển. Sau khi vận chuyển chỉ cần thay nước mới là cá sẽ dần trở lại hoạt động bình thường sau khoảng 1 phút. Loại thuốc này không gây hại cho cơ thể và sức khỏe của cá, tuy nhiên chưa được phổ biến trên thị trường Việt Nam.
Ngoài MS-222 người ta còn dùng Quinaldine và TMS. Đối với dùng Quinaldine có một số hạn chế như cần Aceton để hoà tan và ít an toàn hơn TMS. TMS thường được dùng như trong Bảng 3. Hiệu quả của TMS giảm khi giảm nhiệt độ, giảm độ cứng trong nước và tăng kích cỡ cá.
Khi cá ngủ nhanh thì tốt hơn với an thần lâu nhưng đòi hỏi nồng độ thuốc cao và phải nhanh chóng hồi phục cá. TMS có thể làm giảm pH của nước nên phải thường xuyên kiểm tra pH của nước, nếu cần thiết phải bổ sung dung dịch đệm.
Đối với cá Hồng giai đoạn nhỏ dùng nồng độ TMS từ 50 – 100 mg/l trong 3 – 5 phút để cá ngủ sâu. Nồng độ và thời gian dùng thay đổi đối với các loài cá và các giai đoạn khác nhau. Thuốc ngủ đòi hỏi được xác định cho loài, kích cỡ và các điều hiện hiện có.